Vai Trò Của Ngành Dịch Vụ Trong Đời Sống Và Sản Xuất
Như chúng ta đã biết nước đóng vai trò thiết yếu vô cùng quan trọng không chỉ đối với con người mà đối với cả mọi sinh vật trên Trái Đất. Nước cần cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và toàn bộ các mặt của cuộc sống. Do nhu cầu sử dụng nước ngày càng nhiều con người không ngừng khai thác nước làm nguồn nước cạn kiệt và ô nhiễm. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu vai trò của nước đối với đời sống sinh hoạt và hoạt động sản xuất của con người.
Cơ khí là gì? Vai trò của cơ khí trong đời sống
Cơ khí là ngành không học kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi, có vai trò quan trọng đối với tât cả các ngành sản xuất và đời sống. Cơ khí tạo ra các sản phẩm máy móc, thiết bị nhằm hỗ trợ hoặc thay thế lao động sức người, giúp nâng cao năng suất, thực hiện những công việc phức tạp hoặc có độ nguy hiểm cao.
Vận dụng cơ khí và kỹ thuật cơ khí giúp nâng cao năng suất lao động hơn
Cơ khí tạo ra các loại máy móc, công cụ nhằm hỗ trợ, hoặc thay thế hoàn toàn lao động sức người.
2. Cách tạo ra sản phẩm cơ khí hoàn chỉnh
Một sản phẩm cơ khí hoàn thiện được cấu tạo lên từ nhiều chi tiết cơ khí.
Mỗi chi tiết cơ khí sẽ có đặc điểm và vai trò khác nhau trong tổng thể một sản phẩm cơ khí.
3. Vai trò của cơ khí trong sự phát triển của ngành kinh tế
Công nghiệp cơ khí mang lại nhiều công nghệ hữu ích cho đời sống con ngời, giúp cho những hoạt động của con người trở nên nhẹ nhàng hơn và có thể thay thế con người thực hiện những công việc nằm ngoài khả năng tự nhiên.
Ngành công nghiệp cơ khí phát triển, kéo theo sự phát triển của các nhà máy nghiên cứu và chế tạo sản phẩm cơ khí ngày càng nhiều, góp phần tạo công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động trong nước.
Phát triển cơ khí là mũi nhọn giúp hiện đại hoá ngành công nghiệp sản xuất và vận chuyển của đất nước.Có thể nói công nghiệp cơ khí chính là nền tảng để giúp các ngành công nghiệp khác phát triển, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Nhiều quốc gia được biết đến như các cường quốc công nghiệp hiện nay như Trung Quốc, Nhật Bản, Đức…
4. Tình hình phát triển công nghiệp cơ khí tại Việt Nam
Theo thống kê, Việt Nam chỉ mới tự cung ứng được khoảng 30% các sản phẩm cơ khí. Vào những năm đầu của thế kỷ 20, ngành cơ khí của Việt Nam chủ yếu là các xưởng quân cụ chuyên sửa chữa xe quân sự, vũ khí và các khí tài quân sự khác rải rác khắp các tỉnh thành của cả nước. Tuy nhiên do công nghệ thời kỳ đó còn khá hạn chế nên các công xưởng chủ yếu chuyên về cán, kéo sắt ri, đột dập… ở dạng vừa vả nhỏ.
Trải qua gần 20 năm phát triển, hiện nay cả nước ta có khoảng 30.000 doanh nghiệp cơ khí lớn nhỏ. Đóng góp hàng tỷ USD cho ngân sách nhà nước và tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động.
Các ngành công nghiệp cơ khí trong nước đã và đang từng bước được phát triển mạnh mẽ, sản xuất và ứng dụng rộng rãi trong các ngành nông – lâm – ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và vận chuyển… phục vụ trong nước và xuất khẩu.
Bước nhảy vọt đáng chú ý nhất của ngành công nghiệp trong nước những năm gần đây có thể kể đến việc chúng ta đã có thể tự sản xuất, lắp ráp được hầu hết các chủng loại xe cơ giới như xe máy, ô tô con, ô tô tải, xe khách, các dòng xe điện… Giúp nâng tỷ lệ nội địa hoá của các sản phẩm kể trên lên đến 85-95%, từ đó giảm đáng kể giá thành và kích kích nhu cầu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Tuy nhiên theo đánh giá của Bộ Công Thương, Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong ngành cơ khí chế tạo, nhưng do hạn chế về kỹ thuật và công nghệ nên mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu máy móc trong nước.
Theo báo cáo hàng năm, Việt Nam đang phải nhập khẩu số lượng lớn máy móc thiết bị và phụ tùng (chiến 40-50% kim ngạch xuất khẩu). Ngoài ra có tới 70% các máy móc, thiết bị nông nghiệp đều là nhập khẩu.
Bên cạnh đó, ngành luyện kim của nước ta cũng có nhiều hạn chế, một số kim loại hoặc sản phẩm cơ khí có yêu cầu đặc biệt vẫn chưa thể tự cung cấp mà phải nhập khẩu từ nước ngoài.
5. Động lực để thúc đẩy ngành công nghiệp tại Việt Nam
Nhận thấy được tầm quan trọng của ngành cơ khí trong việc phát triển đất nước, Chính Phủ và Bộ Công Thương Việt Nam đã có nhiều chủ trương, hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp cơ khí trong nước phát triển, đồng thời cũng có nhiều chính sách, chế độ ưu đãi để thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam.
Mặt khác, với lợi thế về nguồn lao động dồi dào, chi phí nhân công rẻ cùng với những chính sách hấp dẫn của nhà nước. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới quan tâm và xây dựng nhà máy khắp các tỉnh trong cả nước có thể kể đến như Samsung, Honda, Huyndai, Toshiba, LG... Khi các doanh nghiệp lớn gia nhập thị trường Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, còn giúp đào tạo lực lượng nhân công có tay nghề và trình độ chuyên môn cao, mang đến những công nghệ và kỹ thuật mới mà chúng ta có thể học hỏi và ứng dụng rộng rãi.
1. Tư duy phản biện (critical thinking) có cội nguồn từ triết lý phân tích và chủ nghĩa kiến tạo thực dụng từ hơn 2.500 năm trước, trong kinh Phật mà chủ yếu là kinh Vệ-đà và A-tì-đạt-ma cũng như trong truyền thống của Hy Lạp, tiêu biểu là quan điểm của nhà triết học Socrat. Mặc dù Socrat đã tiếp cận vấn đề tư duy phản biện từ lâu, nhưng phải đến khi xuất hiện định nghĩa về tư duy phản biện của J. Dewey (1859-1952) - nhà triết học, tâm lý học, giáo dục học người Mỹ - thì tư duy phản biện mới được biết đến một cách rộng rãi. J. Dewey gọi tư duy phản biện là sự suy nghĩ sâu sắc và định nghĩa là sự suy xét chủ động, liên tục, cẩn trọng về một niềm tin, một giả định khoa học có xét đến những lý lẽ bảo vệ nó và những kết luận xa hơn được hướng đến.
Tư duy phản biện là tư duy phân tích, đánh giá thông tin về một vấn đề đã có theo những cách nhìn khác nhau nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề; là tư duy chất vấn các giả định, giả thiết nhằm tìm kiếm sự thật, lý lẽ rõ ràng, nhất quán về vấn đề nhất định; là sự khám phá những khía cạnh khác nhau của một vấn đề; là nhận định để khẳng định đúng sai, chứ không đơn thuần là sự tiếp nhận, duy trì thông tin một cách thụ động. Tư duy phản biện còn là tìm cách lý giải hay tìm tòi giải pháp mới nhằm giải quyết vấn đề, phân tích những giả định và chất lượng của những phương pháp mới hợp lý hơn về một giả thuyết nào đó, chứ không phải sự phản đối với nghĩa tiêu cực; thể hiện sự nhạy cảm trước bối cảnh (nhận biết tình huống ngoại lệ, khác thường).
Ngoài ra, tư duy phản biện là mô hình tư duy về một vấn đề nhất định, trong đó chủ thể tư duy cải tiến chất lượng tư duy của mình bằng việc điều khiển một cách thành thạo các cấu trúc nền tảng có sẵn của tư duy và sử dụng các tiêu chuẩn của hành động trí tuệ vào quá trình tư duy của mình. Tư duy phản biện còn là sự suy nghĩ thấu đáo về một vấn đề, là sự hiểu biết về phương pháp điều tra và suy luận có lý và kỹ năng áp dụng các phương pháp ấy. Tư duy phản biện đòi hỏi phải xem xét mọi vấn đề, mọi thông tin liên quan trước khi đi đến kết luận hoặc ra quyết định. Tư duy phản biện còn được gọi là tư duy tự điều chỉnh (phát hiện mâu thuẫn, tính thiếu căn cứ trong tư duy của mình để hoàn thiện), “tư duy về tư duy” hay “tư duy phê phán”.
Mục tiêu của tư duy phản biện là làm rõ các giả định, nhận định về những giá trị tiềm ẩn bên trong một vấn đề, sự vật hay hiện tượng. Xu hướng của tư duy phản biện thể hiện: ước muốn tự phê phán, suy nghĩ có cân nhắc; khát vọng theo đuổi lẽ phải, khách quan, không định kiến; sự khiêm tốn, cảm thông, chính trực, kiên trì, can đảm, tự chủ và tự tin vào lẽ phải; năng lực tư duy rõ ràng, đáng tin cậy, sâu rộng, thiết thực và công bằng; v.v..
Các hình thức của tư duy phản biện bao gồm: Tư duy tự phản biện (xu hướng xem xét lại, suy nghĩ kỹ lưỡng về ý kiến của người khác và xem xét lại ý kiến của bản thân); Tư duy phản biện ngoại cảnh (tiếp nhận thông tin ngoại cảnh một cách đa chiều, cẩn trọng, không dễ dãi). Tư duy phản biện thể hiện ở các khả năng: quan sát (nhận biết không chỉ hình thức bề ngoài mà bao gồm cả nội dung, bản chất bên trong của một vấn đề, sự vật hay hiện tượng); nêu các câu hỏi (tại sao, như thế nào); sự hoài nghi cần thiết; tư duy lôgích (kết nối các khâu, quá trình, vấn đề, sự vật, hiện tượng với nhau) để tìm câu trả lời; tự loại “cái tôi” ra khỏi khung cảnh; ra quyết định (gọi tên vấn đề, tìm kiếm các đối tượng liên quan, tìm nguyên nhân, nêu giải pháp và tổ chức thực hiện).
Quá trình tư duy phản biện gồm các giai đoạn: nhìn nhận lại (nhìn nhận vấn đề dưới nhiều góc cạnh khác nhau); đánh giá (khảo sát những mâu thuẫn giữa các ý kiến, đo lường sức thuyết phục của những ý kiến); nêu những điểm chưa/không chuẩn xác trong lập luận đã có; nêu kết quả của quá trình tư duy lôgích và đưa ra ý kiến mới; v.v.. Những thao tác của quá trình tư duy phản biện gồm: nêu quan điểm, bảo vệ quan điểm; sử dụng bằng chứng phù hợp, tạo mối liên hệ giữa các ý kiến; đánh giá, phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh các ý kiến; chỉ ra khó khăn, cách khắc phục sự khác nhau giữa các ý kiến; v.v..
Sản phẩm của tư duy phản biện là các phán đoán có cơ sở mang tính ứng dụng thực tiễn cao, đáng tin cậy. Các tiêu chí đánh giá sản phẩm của tư duy phản biện là: sự rõ ràng, mạch lạc; sự chính xác, đầy đủ bằng chứng; sự thống nhất, lôgích; sự khách quan, công tâm; sự toàn diện và sâu sắc; sự phù hợp; v.v. của các phán đoán.
Nguyên tắc của tư duy phản biện bao gồm: không chủ quan chỉ trích quan điểm của người khác khi thấy quan điểm đó khác với quan điểm của mình; cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng; không chìm đắm trong các giả thiết của bản thân; không lý thuyết hóa một vấn đề trước khi có dữ liệu thực tế; sáng suốt, cẩn trọng, chưa khẳng định một giả thuyết khi chưa có kiểm chứng; hoàn thiện nhận thức để có hành động (hành vi) đúng đắn, hiệu quả, v.v..
Yêu cầu của tư duy phản biện bao gồm: sự nỗ lực bền bỉ để khảo sát niềm tin hay giả thuyết, xem xét các bằng chứng khẳng định để có những kết luận xa hơn; suy nghĩ sâu sắc, nhạy cảm, thực tế và hữu ích để quyết định niềm tin hay hành động; đánh giá những dữ liệu thu thập được thông qua quan sát, giao tiếp, truyền thông và tranh luận; sự phê phán và sáng tạo; tìm kiếm những yếu tố có liên quan cũng như thông tin mới; xem xét vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau, tiên đoán những khả năng có thể xảy ra trong tương lai; sự vận dụng các lý thuyết về tư duy vào thực tiễn và các tình huống có vấn đề; sự suy luận theo lối mở, không giới hạn các giải pháp; xây dựng các quan điểm, ý tưởng và điều kiện mới để kết luận vấn đề; tính chủ động và liên tục; không chỉ tri thức về lôgích mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng, đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu, tầm rộng và tính công bằng; v.v..
Đặc điểm của tư duy phản biện bao gồm: sử dụng bằng chứng một cách đúng đắn; sắp xếp, diễn giải các ý tưởng một cách ngắn gọn, rõ ràng; phân biệt suy diễn lôgích và không lôgích; không đưa ra phán đoán khi không có đủ các bằng chứng; nỗ lực dự kiến các tình huống; vận dụng các kỹ năng giải quyết vấn đề thích hợp; lắng nghe ý tưởng của người khác; tìm cách tiếp cận khác cho vấn đề phức tạp; nhận biết sự khác biệt trong các kết luận, giả định, giả thuyết; phát hiện những khiếm khuyết trong quan điểm, ý kiến của người khác.
Người có tư duy phản biện là người: không thành kiến (ham tìm hiểu, biết lắng nghe, có thể chấp nhận ý kiến khác, đề cao giá trị công bằng, tôn trọng bằng chứng và lý lẽ, thích sự rõ ràng chính xác, biết xem xét các quan điểm khác nhau và có thể thay đổi ý kiến của mình); biết vận dụng các tiêu chuẩn (ý kiến mới dựa trên thông tin tin cậy, rõ ràng, khách quan, hợp lý); có khả năng tranh luận (đưa ra lý lẽ có bằng chứng), suy luận (rút ra kết luận từ mối quan hệ lôgích giữa các dữ liệu), xem xét vấn đề từ nhiều phương diện (tiếp cận hiện tượng từ nhiều quan điểm); v.v..
Kỹ năng của tư duy phản biện bao gồm: thu thập thông tin thiết yếu và tổ chức chúng theo một trật tự nhất định; quan sát, diễn giải, phân tích, đánh giá, giải thích, tổng hợp; có phương pháp hay kỹ thuật xây dựng nhận định, thiết lập giả định; lựa chọn và ghi lại các hoài nghi theo phương pháp khoa học; liên hệ, so sánh các quan điểm; đặt ra câu hỏi sâu rộng quanh chủ đề; suy luận, tìm hiểu mối quan hệ giữa các luận điểm; hiểu rõ tính ưu tiên của từng nội dung trong giải quyết vấn đề; tìm ra được phương pháp mới để giải quyết vấn đề; nhận biết giá trị; sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, chính xác; rút ra kết luận và khái quát hóa, kiểm nghiệm kết quả; xây dựng lại mô hình niềm tin, nhận định; v.v.. Như vậy, để có tư duy phản biện, chủ thể phải rèn luyện khả năng quan sát, tìm kiếm câu trả lời, hoài nghi, tư duy lôgích, đưa ra quyết định đúng đắn; v.v..
Phương pháp rèn luyện tư duy phản biện bao gồm: động não (suy nghĩ, phân loại, so sánh, suy xét, ứng dụng, v.v.); tổ chức ý tưởng, rèn luyện, chỉnh sửa. Việc rèn luyện tư duy phản biện phải qua các giai đoạn: chưa biết (chưa nhận thức được những vấn đề mấu chốt trong suy nghĩ của mình) - bị thách thức (bắt đầu để ý đến những vấn đề trong suy nghĩ của mình) - bắt đầu (cố gắng cải thiện cách tư duy nhưng chưa thực hành thường xuyên) - thực hành (nhận ra sự cần thiết phải thực hành thường xuyên) - nâng cao (tiến bộ trong cách tư duy song song với việc thực hành). Nói khái quát, phương pháp rèn luyện tư duy phản biện bao gồm tự đặt câu hỏi cho bản thân, có cái nhìn khách quan, trau dồi kiến thức.
2. Tư duy phản biện có vai trò to lớn trong đời sống xã hội: giúp con người vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn mẫu, thói quen có sẵn; hướng đến cái mới, thoát ra khỏi những rào cản của định kiến; tìm hiểu, phát hiện những ý tưởng, giá trị mới của vấn đề; tạo tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ trong suy nghĩ và hành động; có ý thức nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc nhìn mới, đưa lại kết quả mới, kích thích khả năng sáng tạo.
Tư duy phản biện giúp con người suy nghĩ một vấn đề theo nhiều hướng khác nhau với những cách giải quyết khác nhau; khắc phục tình trạng nhìn nhận vấn đề một chiều, phiến diện, chủ quan, duy ý chí; suy nghĩ để giải quyết vấn đề theo hướng xem xét kỹ ở mọi góc độ, khía cạnh, đưa ra nhiều phương án khác nhau và lựa chọn phương án tối ưu với những lập luận có cơ sở vững chắc; ý thức rõ ràng hơn trong việc lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác khi tranh luận; sẵn sàng chấp nhận sự thật khách quan, lắng nghe ý kiến khác với ý kiến của mình và cố gắng tìm hiểu bản chất của vấn đề trước khi đưa ra kết luận; dám thừa nhận cái chưa đúng, sẵn sàng thừa nhận cái đúng của người khác và vì vậy, dễ dàng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với mọi người.
Tư duy phản biện giúp con người có phương pháp tư duy độc lập, nhìn ra những hạn chế, sai lầm dễ mắc phải trong quá trình tư duy của mình, từ đó đưa ra những nhận định, phán đoán tối ưu; có suy nghĩ tích cực, giảm thiểu trạng thái tâm lý buồn rầu, thất vọng, mất lòng tin; khám phá những tiềm năng vốn có của bản thân, tạo động lực vượt lên chính mình, tự khẳng định mình, hình thành nhân cách tự chủ, độc lập và sáng tạo; nỗ lực cập nhật, chắt lọc những thông tin cần thiết, có giá trị, bổ ích cho bản thân; nâng cao kỹ năng tiếp cận và xử lý thông tin; trình bày vấn đề một cách sáng tạo; đưa ra luận điểm/luận cứ một cách rõ ràng; tăng cường khả năng suy nghĩ theo hướng mở, rõ ràng, đáng tin cậy, không hấp tấp, vội vàng; dễ dàng hòa đồng vào tập thể, cộng đồng.
Tư duy phản biện, hơn nữa, còn trở thành một động lực phát triển xã hội, có giá trị rất lớn quyết định tới sự thành bại của tổ chức xã hội và sự tiến bộ của loài người.Xã hội có phản biện là xã hội phát triển, tránh được rủi ro, thúc đẩy cải tiến cái cũ và sáng tạo cái mới. Tư duy phản biện giúp con người giải quyết vấn đề một cách thấu tình, đạt lý; kế thừa những giá trị trong quan điểm cũ, hình thành quan điểm mới nhằm cải biến nhận thức và hành động trong thực tiễn; chủ động, tự giác, thể hiện tính chính xác, triệt để, có căn cứ và chứng minh được các lập luận, nâng cao hiệu quả hoạt động xã hội; tìm kiếm con đường đúng đắn, hiệu quả nhất để đạt tới chân lý; phát hiện ra những sai lầm; rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng.
Trong lĩnh vực chính trị, tư duy phản biện giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước nâng cao năng lực tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn, từ đó xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, có hiệu quả. Hơn nữa, tư duy phản biện còn góp phần tích cực trong việc xây dựng và phát triển nền dân chủ và nhà nước pháp quyền; tăng cường nhu cầu và khả năng phản biện xã hội, phản biện chính sách của các tổ chức chính trị - xã hội; mở rộng sự tham gia tích cực của người dân vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, tư duy phản biện giúp con người nhận biết thông tin đúng đắn, khắc phục tình trạng nhiễu loạn thông tin, chạy theo dư luận, tin đồn; thu nhận những kinh nghiệm, kiến thức, thông tin từ các nguồn khác nhau; tiếp thu những cái hay, cái tốt trong xã hội. Trong xã hội bùng nổ thông tin hiện nay, khi khối lượng thông tin ngày càng lớn, lan truyền với tốc độ cao, tư duy phản biện sẽ giúp con người chắt lọc được những thông tin cần thiết và đáng tin cậy; mở rộng tri thức thay vì chỉ xác nhận thông tin. Với kỹ năng tư duy phản biện, chủ thể sẽ có thêm kỹ năng xử lý thông tin và các tình huống trong đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, tư duy phản biện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, vì khoa học cần đến thực nghiệm, ứng dụng thông qua những hoài nghi và phản biện. Trong thực tiễn, tư duy phản biện cùng với những loại hình tư duy khoa học khác đã tạo ra sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học; trở thành một trong những tiền đề tư tưởng cho các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Tư duy phản biện là một trong những phẩm chất cốt lõi của hoạt động trí tuệ của đội ngũ những người làm khoa học và phát minh, sáng chế.
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tư duy phản biện là một trong những kỹ năng quan trọng nhất và cũng khó nhất, đặc biệt là trong giáo dục - đào tạo hiện đại. Phương pháp giáo dục - đào tạo hiện đại bao hàm tư duy phản biện, cung cấp cho người học không chỉ cách giải quyết vấn đề mà cả cách nêu vấn đề. Phát triển năng lực tư duy phản biện cho người học là phát triển năng lực tư duy độc lập, tiếp nhận và xử lý thông tin, tri thức. Với tư duy phản biện, giáo dục - đào tạo ngày càng chuyển từ phương pháp truyền thống sang phương pháp hiện đại với việc: lấy người học và tư duy sáng tạo của họ làm trung tâm; chuyển từ hình thức học chủ yếu trên lớp sang hình thức tổ chức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa; chuyển từ cung cấp tri thức, kỹ năng là chủ yếu sang cung cấp phương pháp nghiên cứu, học tập là chủ yếu; chuyển từ đánh giá tri thức là chủ yếu sang đánh giá năng lực là chủ yếu; v.v. nhằm giáo dục, đào tạo những lớp người mới tích cực, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
Trường Trung cấp Luật Vị Thanh - Bộ Tư pháp
------------------------------------------
Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin, vấn đề ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, tư duy phản biện là một trong những yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự nhận thức đúng đắn và khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân cũng như cơ quan, tổ chức.
1. Tư duy phản biện (critical thinking) có cội nguồn từ triết lý phân tích và chủ nghĩa kiến tạo thực dụng từ hơn 2.500 năm trước, trong kinh Phật mà chủ yếu là kinh Vệ-đà và A-tì-đạt-ma cũng như trong truyền thống của Hy Lạp, tiêu biểu là quan điểm của nhà triết học Socrat. Mặc dù Socrat đã tiếp cận vấn đề tư duy phản biện từ lâu, nhưng phải đến khi xuất hiện định nghĩa về tư duy phản biện của J. Dewey (1859-1952) - nhà triết học, tâm lý học, giáo dục học người Mỹ - thì tư duy phản biện mới được biết đến một cách rộng rãi. J. Dewey gọi tư duy phản biện là sự suy nghĩ sâu sắc và định nghĩa là sự suy xét chủ động, liên tục, cẩn trọng về một niềm tin, một giả định khoa học có xét đến những lý lẽ bảo vệ nó và những kết luận xa hơn được hướng đến.
Tư duy phản biện là tư duy phân tích, đánh giá thông tin về một vấn đề đã có theo những cách nhìn khác nhau nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề; là tư duy chất vấn các giả định, giả thiết nhằm tìm kiếm sự thật, lý lẽ rõ ràng, nhất quán về vấn đề nhất định; là sự khám phá những khía cạnh khác nhau của một vấn đề; là nhận định để khẳng định đúng sai, chứ không đơn thuần là sự tiếp nhận, duy trì thông tin một cách thụ động. Tư duy phản biện còn là tìm cách lý giải hay tìm tòi giải pháp mới nhằm giải quyết vấn đề, phân tích những giả định và chất lượng của những phương pháp mới hợp lý hơn về một giả thuyết nào đó, chứ không phải sự phản đối với nghĩa tiêu cực; thể hiện sự nhạy cảm trước bối cảnh (nhận biết tình huống ngoại lệ, khác thường).
Ngoài ra, tư duy phản biện là mô hình tư duy về một vấn đề nhất định, trong đó chủ thể tư duy cải tiến chất lượng tư duy của mình bằng việc điều khiển một cách thành thạo các cấu trúc nền tảng có sẵn của tư duy và sử dụng các tiêu chuẩn của hành động trí tuệ vào quá trình tư duy của mình. Tư duy phản biện còn là sự suy nghĩ thấu đáo về một vấn đề, là sự hiểu biết về phương pháp điều tra và suy luận có lý và kỹ năng áp dụng các phương pháp ấy. Tư duy phản biện đòi hỏi phải xem xét mọi vấn đề, mọi thông tin liên quan trước khi đi đến kết luận hoặc ra quyết định. Tư duy phản biện còn được gọi là tư duy tự điều chỉnh (phát hiện mâu thuẫn, tính thiếu căn cứ trong tư duy của mình để hoàn thiện), “tư duy về tư duy” hay “tư duy phê phán”.
Mục tiêu của tư duy phản biện là làm rõ các giả định, nhận định về những giá trị tiềm ẩn bên trong một vấn đề, sự vật hay hiện tượng. Xu hướng của tư duy phản biện thể hiện: ước muốn tự phê phán, suy nghĩ có cân nhắc; khát vọng theo đuổi lẽ phải, khách quan, không định kiến; sự khiêm tốn, cảm thông, chính trực, kiên trì, can đảm, tự chủ và tự tin vào lẽ phải; năng lực tư duy rõ ràng, đáng tin cậy, sâu rộng, thiết thực và công bằng; v.v..
Các hình thức của tư duy phản biện bao gồm: Tư duy tự phản biện (xu hướng xem xét lại, suy nghĩ kỹ lưỡng về ý kiến của người khác và xem xét lại ý kiến của bản thân); Tư duy phản biện ngoại cảnh (tiếp nhận thông tin ngoại cảnh một cách đa chiều, cẩn trọng, không dễ dãi). Tư duy phản biện thể hiện ở các khả năng: quan sát (nhận biết không chỉ hình thức bề ngoài mà bao gồm cả nội dung, bản chất bên trong của một vấn đề, sự vật hay hiện tượng); nêu các câu hỏi (tại sao, như thế nào); sự hoài nghi cần thiết; tư duy lôgích (kết nối các khâu, quá trình, vấn đề, sự vật, hiện tượng với nhau) để tìm câu trả lời; tự loại “cái tôi” ra khỏi khung cảnh; ra quyết định (gọi tên vấn đề, tìm kiếm các đối tượng liên quan, tìm nguyên nhân, nêu giải pháp và tổ chức thực hiện).
Quá trình tư duy phản biện gồm các giai đoạn: nhìn nhận lại (nhìn nhận vấn đề dưới nhiều góc cạnh khác nhau); đánh giá (khảo sát những mâu thuẫn giữa các ý kiến, đo lường sức thuyết phục của những ý kiến); nêu những điểm chưa/không chuẩn xác trong lập luận đã có; nêu kết quả của quá trình tư duy lôgích và đưa ra ý kiến mới; v.v.. Những thao tác của quá trình tư duy phản biện gồm: nêu quan điểm, bảo vệ quan điểm; sử dụng bằng chứng phù hợp, tạo mối liên hệ giữa các ý kiến; đánh giá, phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh các ý kiến; chỉ ra khó khăn, cách khắc phục sự khác nhau giữa các ý kiến; v.v..
Sản phẩm của tư duy phản biện là các phán đoán có cơ sở mang tính ứng dụng thực tiễn cao, đáng tin cậy. Các tiêu chí đánh giá sản phẩm của tư duy phản biện là: sự rõ ràng, mạch lạc; sự chính xác, đầy đủ bằng chứng; sự thống nhất, lôgích; sự khách quan, công tâm; sự toàn diện và sâu sắc; sự phù hợp; v.v. của các phán đoán.
Nguyên tắc của tư duy phản biện bao gồm: không chủ quan chỉ trích quan điểm của người khác khi thấy quan điểm đó khác với quan điểm của mình; cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng; không chìm đắm trong các giả thiết của bản thân; không lý thuyết hóa một vấn đề trước khi có dữ liệu thực tế; sáng suốt, cẩn trọng, chưa khẳng định một giả thuyết khi chưa có kiểm chứng; hoàn thiện nhận thức để có hành động (hành vi) đúng đắn, hiệu quả, v.v..
Yêu cầu của tư duy phản biện bao gồm: sự nỗ lực bền bỉ để khảo sát niềm tin hay giả thuyết, xem xét các bằng chứng khẳng định để có những kết luận xa hơn; suy nghĩ sâu sắc, nhạy cảm, thực tế và hữu ích để quyết định niềm tin hay hành động; đánh giá những dữ liệu thu thập được thông qua quan sát, giao tiếp, truyền thông và tranh luận; sự phê phán và sáng tạo; tìm kiếm những yếu tố có liên quan cũng như thông tin mới; xem xét vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau, tiên đoán những khả năng có thể xảy ra trong tương lai; sự vận dụng các lý thuyết về tư duy vào thực tiễn và các tình huống có vấn đề; sự suy luận theo lối mở, không giới hạn các giải pháp; xây dựng các quan điểm, ý tưởng và điều kiện mới để kết luận vấn đề; tính chủ động và liên tục; không chỉ tri thức về lôgích mà còn những tiêu chí trí tuệ khác như sự rõ ràng, đáng tin cậy, sự xác đáng, sự sâu sắc, tính thiết thực, chiều sâu, tầm rộng và tính công bằng; v.v..
Đặc điểm của tư duy phản biện bao gồm: sử dụng bằng chứng một cách đúng đắn; sắp xếp, diễn giải các ý tưởng một cách ngắn gọn, rõ ràng; phân biệt suy diễn lôgích và không lôgích; không đưa ra phán đoán khi không có đủ các bằng chứng; nỗ lực dự kiến các tình huống; vận dụng các kỹ năng giải quyết vấn đề thích hợp; lắng nghe ý tưởng của người khác; tìm cách tiếp cận khác cho vấn đề phức tạp; nhận biết sự khác biệt trong các kết luận, giả định, giả thuyết; phát hiện những khiếm khuyết trong quan điểm, ý kiến của người khác.
Người có tư duy phản biện là người: không thành kiến (ham tìm hiểu, biết lắng nghe, có thể chấp nhận ý kiến khác, đề cao giá trị công bằng, tôn trọng bằng chứng và lý lẽ, thích sự rõ ràng chính xác, biết xem xét các quan điểm khác nhau và có thể thay đổi ý kiến của mình); biết vận dụng các tiêu chuẩn (ý kiến mới dựa trên thông tin tin cậy, rõ ràng, khách quan, hợp lý); có khả năng tranh luận (đưa ra lý lẽ có bằng chứng), suy luận (rút ra kết luận từ mối quan hệ lôgích giữa các dữ liệu), xem xét vấn đề từ nhiều phương diện (tiếp cận hiện tượng từ nhiều quan điểm); v.v..
Kỹ năng của tư duy phản biện bao gồm: thu thập thông tin thiết yếu và tổ chức chúng theo một trật tự nhất định; quan sát, diễn giải, phân tích, đánh giá, giải thích, tổng hợp; có phương pháp hay kỹ thuật xây dựng nhận định, thiết lập giả định; lựa chọn và ghi lại các hoài nghi theo phương pháp khoa học; liên hệ, so sánh các quan điểm; đặt ra câu hỏi sâu rộng quanh chủ đề; suy luận, tìm hiểu mối quan hệ giữa các luận điểm; hiểu rõ tính ưu tiên của từng nội dung trong giải quyết vấn đề; tìm ra được phương pháp mới để giải quyết vấn đề; nhận biết giá trị; sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, chính xác; rút ra kết luận và khái quát hóa, kiểm nghiệm kết quả; xây dựng lại mô hình niềm tin, nhận định; v.v.. Như vậy, để có tư duy phản biện, chủ thể phải rèn luyện khả năng quan sát, tìm kiếm câu trả lời, hoài nghi, tư duy lôgích, đưa ra quyết định đúng đắn; v.v..
Phương pháp rèn luyện tư duy phản biện bao gồm: động não (suy nghĩ, phân loại, so sánh, suy xét, ứng dụng, v.v.); tổ chức ý tưởng, rèn luyện, chỉnh sửa. Việc rèn luyện tư duy phản biện phải qua các giai đoạn: chưa biết (chưa nhận thức được những vấn đề mấu chốt trong suy nghĩ của mình) - bị thách thức (bắt đầu để ý đến những vấn đề trong suy nghĩ của mình) - bắt đầu (cố gắng cải thiện cách tư duy nhưng chưa thực hành thường xuyên) - thực hành (nhận ra sự cần thiết phải thực hành thường xuyên) - nâng cao (tiến bộ trong cách tư duy song song với việc thực hành). Nói khái quát, phương pháp rèn luyện tư duy phản biện bao gồm tự đặt câu hỏi cho bản thân, có cái nhìn khách quan, trau dồi kiến thức.
2. Tư duy phản biện có vai trò to lớn trong đời sống xã hội: giúp con người vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo khuôn mẫu, thói quen có sẵn; hướng đến cái mới, thoát ra khỏi những rào cản của định kiến; tìm hiểu, phát hiện những ý tưởng, giá trị mới của vấn đề; tạo tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ trong suy nghĩ và hành động; có ý thức nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc nhìn mới, đưa lại kết quả mới, kích thích khả năng sáng tạo.
Tư duy phản biện giúp con người suy nghĩ một vấn đề theo nhiều hướng khác nhau với những cách giải quyết khác nhau; khắc phục tình trạng nhìn nhận vấn đề một chiều, phiến diện, chủ quan, duy ý chí; suy nghĩ để giải quyết vấn đề theo hướng xem xét kỹ ở mọi góc độ, khía cạnh, đưa ra nhiều phương án khác nhau và lựa chọn phương án tối ưu với những lập luận có cơ sở vững chắc; ý thức rõ ràng hơn trong việc lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác khi tranh luận; sẵn sàng chấp nhận sự thật khách quan, lắng nghe ý kiến khác với ý kiến của mình và cố gắng tìm hiểu bản chất của vấn đề trước khi đưa ra kết luận; dám thừa nhận cái chưa đúng, sẵn sàng thừa nhận cái đúng của người khác và vì vậy, dễ dàng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với mọi người.
Tư duy phản biện giúp con người có phương pháp tư duy độc lập, nhìn ra những hạn chế, sai lầm dễ mắc phải trong quá trình tư duy của mình, từ đó đưa ra những nhận định, phán đoán tối ưu; có suy nghĩ tích cực, giảm thiểu trạng thái tâm lý buồn rầu, thất vọng, mất lòng tin; khám phá những tiềm năng vốn có của bản thân, tạo động lực vượt lên chính mình, tự khẳng định mình, hình thành nhân cách tự chủ, độc lập và sáng tạo; nỗ lực cập nhật, chắt lọc những thông tin cần thiết, có giá trị, bổ ích cho bản thân; nâng cao kỹ năng tiếp cận và xử lý thông tin; trình bày vấn đề một cách sáng tạo; đưa ra luận điểm/luận cứ một cách rõ ràng; tăng cường khả năng suy nghĩ theo hướng mở, rõ ràng, đáng tin cậy, không hấp tấp, vội vàng; dễ dàng hòa đồng vào tập thể, cộng đồng.
Tư duy phản biện, hơn nữa, còn trở thành một động lực phát triển xã hội, có giá trị rất lớn quyết định tới sự thành bại của tổ chức xã hội và sự tiến bộ của loài người.Xã hội có phản biện là xã hội phát triển, tránh được rủi ro, thúc đẩy cải tiến cái cũ và sáng tạo cái mới. Tư duy phản biện giúp con người giải quyết vấn đề một cách thấu tình, đạt lý; kế thừa những giá trị trong quan điểm cũ, hình thành quan điểm mới nhằm cải biến nhận thức và hành động trong thực tiễn; chủ động, tự giác, thể hiện tính chính xác, triệt để, có căn cứ và chứng minh được các lập luận, nâng cao hiệu quả hoạt động xã hội; tìm kiếm con đường đúng đắn, hiệu quả nhất để đạt tới chân lý; phát hiện ra những sai lầm; rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng.
Trong lĩnh vực chính trị, tư duy phản biện giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước nâng cao năng lực tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn, từ đó xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, có hiệu quả. Hơn nữa, tư duy phản biện còn góp phần tích cực trong việc xây dựng và phát triển nền dân chủ và nhà nước pháp quyền; tăng cường nhu cầu và khả năng phản biện xã hội, phản biện chính sách của các tổ chức chính trị - xã hội; mở rộng sự tham gia tích cực của người dân vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, tư duy phản biện giúp con người nhận biết thông tin đúng đắn, khắc phục tình trạng nhiễu loạn thông tin, chạy theo dư luận, tin đồn; thu nhận những kinh nghiệm, kiến thức, thông tin từ các nguồn khác nhau; tiếp thu những cái hay, cái tốt trong xã hội. Trong xã hội bùng nổ thông tin hiện nay, khi khối lượng thông tin ngày càng lớn, lan truyền với tốc độ cao, tư duy phản biện sẽ giúp con người chắt lọc được những thông tin cần thiết và đáng tin cậy; mở rộng tri thức thay vì chỉ xác nhận thông tin. Với kỹ năng tư duy phản biện, chủ thể sẽ có thêm kỹ năng xử lý thông tin và các tình huống trong đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, tư duy phản biện giữ vai trò đặc biệt quan trọng, vì khoa học cần đến thực nghiệm, ứng dụng thông qua những hoài nghi và phản biện. Trong thực tiễn, tư duy phản biện cùng với những loại hình tư duy khoa học khác đã tạo ra sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học; trở thành một trong những tiền đề tư tưởng cho các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Tư duy phản biện là một trong những phẩm chất cốt lõi của hoạt động trí tuệ của đội ngũ những người làm khoa học và phát minh, sáng chế.
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tư duy phản biện là một trong những kỹ năng quan trọng nhất và cũng khó nhất, đặc biệt là trong giáo dục - đào tạo hiện đại. Phương pháp giáo dục - đào tạo hiện đại bao hàm tư duy phản biện, cung cấp cho người học không chỉ cách giải quyết vấn đề mà cả cách nêu vấn đề. Phát triển năng lực tư duy phản biện cho người học là phát triển năng lực tư duy độc lập, tiếp nhận và xử lý thông tin, tri thức. Với tư duy phản biện, giáo dục - đào tạo ngày càng chuyển từ phương pháp truyền thống sang phương pháp hiện đại với việc: lấy người học và tư duy sáng tạo của họ làm trung tâm; chuyển từ hình thức học chủ yếu trên lớp sang hình thức tổ chức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa; chuyển từ cung cấp tri thức, kỹ năng là chủ yếu sang cung cấp phương pháp nghiên cứu, học tập là chủ yếu; chuyển từ đánh giá tri thức là chủ yếu sang đánh giá năng lực là chủ yếu; v.v. nhằm giáo dục, đào tạo những lớp người mới tích cực, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
Trường Trung cấp Luật Vị Thanh - Bộ Tư pháp
1. Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1996.
2. Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải: Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998.
3. A. Fisher: Critical thinking, An Introduction,CambridgeUniversityPress, United Kingdom, 2001.
4. D. Bohm: Tư duy như một hệ thống, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2011.
5. H. Nowotny, P. Scott, M. Gibbons: Tư duy lại khoa học: Tri thức và công chúng trong kỷ nguyên bất định, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2009.
6. K. B. Beyer: Critical thinking, Bloomington,IN: Phi Delta Kappa Educational Foundation, 1995.
7. M. Lipman: Thinking in Education, New York:CambridgeUniversityPress, 2003.
8. Oxford University Press: Oxford Advanced Learn’s Dictionary, 7 th Edition, 2005.
9. Paul R. & Elder L.: Critical Thinking: Tools for Taking Change of Your Learning and Your Life, 2001.
Công nghệ len lỏi vào mọi ngóc ngách của đời sống, từ những vật dụng đơn giản nhất trong nhà đến những hệ thống phức tạp trong các ngành công nghiệp. Nó tác động mạnh mẽ đến mọi khía cạnh của đời sống con người, từ cách thức chúng ta làm việc, học tập, giải trí đến cách thức chúng ta giao tiếp, kết nối và tương tác với nhau. Cùng SBLAW đi sâu tìm hiểu công nghệ là gì? Vai trò của công nghệ trong đời sống con người.
Công nghệ là một khái niệm rộng bao gồm sự sáng tạo, thay đổi, ứng dụng và kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống và phương pháp tổ chức nhằm giải quyết một vấn đề, cải thiện một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích hoặc thực hiện một chức năng cụ thể đòi hỏi hàm lượng chất xám cao.
Nói một cách đơn giản, công nghệ là sự ứng dụng những phát minh khoa học vào những mục tiêu hoặc sản phẩm thực tiễn và cụ thể phục vụ đời sống con người, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp hoặc thương mại.
Một số ví dụ về công nghệ trong đời sống hàng ngày:
Công nghệ có thể được chia thành nhiều loại khác nhau, bao gồm:
Lịch sử công nghệ là một hành trình dài và đầy biến động, ghi dấu những bước tiến vượt bậc của trí tuệ và sáng tạo con người. Từ những công cụ thô sơ thời tiền sử đến những công nghệ tiên tiến hiện đại, con người không ngừng nỗ lực để cải thiện cuộc sống và khám phá thế giới xung quanh.
Dưới đây là một số mốc thời gian quan trọng trong lịch sử công nghệ:
Lịch sử công nghệ còn rất nhiều điều thú vị và hấp dẫn để khám phá. Nó cho chúng ta thấy sự sáng tạo và nỗ lực không ngừng của con người trong việc cải thiện cuộc sống và khám phá thế giới xung quanh.